750 tỷ đồng nâng cấp tuyến Lộ Tẻ – Rạch Sỏi; 3.000 tỷ đồng bảo trì đường sắt

Đó là hai trong số những thông tin về đầu tư tuần qua.

Đầu tư 750 tỷ đồng nâng cấp tuyến Lộ Tẻ – Rạch Sỏi đạt chuẩn cao tốc

Đoạn tuyến Lộ Tẻ- Rạch Sỏi dài 51,5 km được đưa vào khai thác vào cuối năm 2020 hiện có quy mô cao tốc 4 làn xe hạn chế, mặt đường là láng nhựa tiêu chuẩn 3 lớp.

Ban quản lý Dự án Mỹ Thuận vừa có đề nghị Bộ GTVT xem xét, quyết định chủ trương đầu tư Dự án đầu tư nâng cấp mặt đường tuyến Lộ Tẻ (Cần Thơ) – Rạch Sỏi (Kiên Giang) theo hình thức đầu tư công.

Một đoạn tuyến Lộ Tẻ - Rạch Sỏi.
Một đoạn tuyến Lộ Tẻ – Rạch Sỏi.

Dự án có điểm đầu tại nút giao giữa tuyến N2B (đoạn Cao Lãnh – Vàm Cống) với tuyến tránh Quốc lộ 91; điểm cuối tại tuyến kết nối vào đường hành lang ven biển phía Nam tại lý trình khoảng Km105+625 (theo lý trình Đường hành lang ven biển phía Nam).

Hướng tuyến Dự án theo tuyến Lộ Tẻ – Rạch Sỏi đã được đầu tư xây dựng với chiều dài đoạn tuyến là 51,5km.

Dự án đầu tư nâng cấp mặt đường tuyến Lộ Tẻ  – Rạch Sỏi sẽ tiến hành thảm tăng cường 2 lớp bê tông nhựa gồm: 6cm bê tông nhựa C12.5 trên lớp 7cm bê tông nhựa C19 đảm bảo khai thác êm thuận.

Tổng mức đầu tư Dự án dự kiến khoảng 750 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, vốn trái phiếu Chính phủ và các nguồn vốn hợp pháp khác thuộc danh mục đầu tư công.

Được biết, Dự án xây dựng tuyến Lộ Tẻ – Rạch Sỏi được đầu tư xây dựng theo Quyếtđịnh số 2388/QĐ-BGTVT ngày 14/8/2017 của Bộ GTVT, đã hoàn thành đưa vào khai thác cuối năm 2020, sử dụng nguồn vốn ODA của nhà tài trợ Chính phủ Hàn Quốc và vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam; thời hạn bảo hành đến hết năm 2022.

Do vậy, Dự án đầu tư nâng cấp mặt đường tuyến Lộ Tẻ – Rạch Sỏi sẽ chỉ được đầu tư từ năm 2023 sau thời gian bảo hành nêu trên.

Tuyến Lộ Tẻ – Rạch Sỏi cùng với đoạn tuyến Cao Lãnh – Lộ Tẻ, với tổng chiều dài khoảng 80,34km, nằm trên trục đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Tây (đoạn qua khu vực đồng bằng Sông Cửu Long), là một trục dọc chính nằm ở phía Tây, có vai trò giảm bớt lưu lượng giao thông trên trục dọc quốc lộ 1A hiện đang quá tải trầm trọng.

Việc đầu tư nâng cấp mặt đường tuyến Lộ Tẻ – Rạch Sỏi sẽ phát huy tối đa năng lực khai thác của tuyến, đảm bảo lưu thông êm thuận, giảm chi phí duy tu, bảo dưỡng tuyến đường và phát huy tối đa hiệu quả đoạn tuyến từ Cao Lãnh – Lộ Tẻ – Rạch Sỏi.

Việc nâng cấp mặt đường tuyến Lộ Tẻ – Rạch Sỏi sẽ làm tăng độ êm thuận, giảm thiểu chi phí vận doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa, góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển kinh tế – xã hội an ninh quốc phòng khu vực tứ giác Long Xuyên nói riêng và vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung.

Chính phủ trình Quốc hội 8 chính sách đặc thù cho Cần Thơ

Các chính sách này thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội, nhưng khác với quy định hiện hành hoặc chưa có quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật.

Thừa ủy quyền của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng báo cáo Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Cần Thơ trong 5 năm, kể từ khi Quốc hội thông qua.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng báo cáo Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Cần Thơ trong 5 năm, kể từ khi Quốc hội thông qua.
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng báo cáo Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Cần Thơ trong 5 năm, kể từ khi Quốc hội thông qua.

Các chính sách này thuộc các lĩnh vực quản lý tài chính – ngân sách nhà nước; qản lý đất đai; quản lý quy hoạch; thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức; lĩnh vực ưu đãi, hỗ trợ đầu tư đối với các Dự án nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Định An – Cần Thơ và Trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Vùng đồng bằng sông Cửu Long tại TP. Cần Thơ.

Cụ thể, về mức dư nợ vay, Dự thảo đề nghị cho phép Thành phố được được vay thông qua phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay từ các tổ chức tài chính trong nước, các tổ chức khác trong nước và từ nguồn vay nước ngoài của Chính phủ vay về cho Thành phố vay lại với tổng mức dư nợ vay không vượt quá 60% số thu ngân sách Thành phố được hưởng theo phân cấp.

Tổng mức vay và bội chi ngân sách Thành phố hằng năm do Quốc hội quyết định theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Hiện tại, mức dư nợ vay của Cần Thơ là không vượt quá 40%.

Về bổ sung có mục tiêu từ ngân sách Trung ương cho Cần Thơ, Dự thảo Nghị quyết quy định không quá 70% số tăng thu ngân sách trung ương từ các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách Thành phố so với dự toán Thủ tướng Chính phủ giao

Theo dự toán năm 2021 đã được Quốc hội thông qua, quy mô thu các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách Thành phố và các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100% trên địa bàn Thành phố đã đạt 2.305 tỷ đồng, bằng 20% dự toán thu NSNN của Thành phố.

Chính sách đặc thù tương tự đã được áp dụng đối với TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng .

Dự thảo Nghị quyết cũng đề nghị phân cấp thẩm quyền quyết định về phí, lệ phí áp dụng  tương tự đã được Quốc hội đồng ý cho phép áp dụng đối với TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng và tỉnh Thanh Hóa.

Về quản lý đất đai, Dự thảo Nghị quyết quy định HĐND Thành phố quyết định chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa nước từ 02 vụ trở lên với quy mô dưới 500 ha theo ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền quyết định.

Chính sách đặc thù tương tự đã được Quốc hội cho phép đồng ý áp dụng đối với TP.HCM, Hải Phòng, Nghệ An và Thanh Hóa.

Về quản lý quy hoạch, UBND Thành phố được đề nghị phân cấp thực hiện phê duyệt điều chỉnh cục bộ quy hoạch chung xây dựng khu chức năng, điều chỉnh cục bộ quy hoạch chung đô thị trên cơ sở đồ án quy hoạch xây dựng khu chức năng, quy hoạch đô thị Thành phố đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Trình tự, thủ tục do Thủ tướng Chính phủ quyết định và báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện.

Chính sách này đã được Quốc hội cho phép áp dụng đối với Đà Nẵng, Hải Phòng, Thanh Hóa và Nghệ An.

Về thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức thuộc Thành phố quản lý, HĐND Thành phố được quyết định sử dụng nguồn cải cách tiền lương còn dư của ngân sách Thành phố và cho phép ngân sách cấp dưới sử dụng nguồn cải cách tiền lương còn dư để chi thu nhập bình quân tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan chính quyền, Đảng, đoàn thể do Thành phố quản lý theo hiệu quả công việc.

Mức tăng không quá 0,8 lần mức lương ngạch bậc, chức vụ hoặc mức lương theo vị trí việc làm, chức danh, chức vụ lãnh đạo.

Dự thảo Nghị quyết cũng quy định các ưu đãi thuế, tiền thuê đất, thủ tục hải quan dành cho dự án Nạo vét kết hợp thu hồi sản phẩm luồng hàng hải Định An – Cần Thơ và Trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Vùng đồng bằng sông Cửu Long tại Cần Thơ.

Đà Nẵng chưa thông qua thu hồi đất Dự án chợ đầu mối Hòa Phước

Trong Nghị quyết mới ban hành, HĐND TP. Đà Nẵng chưa thông qua việc thu hồi đất đối với dự án chợ đầu mối Hòa Phước trong năm 2022.

HĐND Thành phố vừa ban hành Nghị quyết số 66/NQ-HĐND về việc thông qua danh mục công trình, Dự án cần thu hồi đất bổ sung năm 2021, danh mục công trình, dự án cần thu hồi đất năm 2022 và danh mục công trình, dự án có sử dụng đất trồng lúa, đất rừng phòng hộ, đất rừng đặc dụng bổ sung năm 2021 của thành phố.

Toàn cảnh phiên khai mạc kỳ họp bất thường tại điểm cầu Diên Hồng.
Toàn cảnh phiên khai mạc kỳ họp bất thường tại điểm cầu Diên Hồng.

Cụ thể, 2 công trình, dự án cần thu hồi đất bổ sung năm 2021 tại xã Hòa Phú (huyện Hòa Vang) và phường Hòa Hiệp Bắc (quận Liên Chiểu); 50 công trình, dự án cần thu hồi đất năm 2022.

Nghị quyết cho biết chưa thông qua 8 công trình, dự án cần thu hồi đất năm 2022 gồm: Dự án Xây dựng mở rộng Trường THCS Ông Ích Đường; tuyến thoát nước chính từ hạ lưu tuyến kênh thoát nước Khu Công nghệ cao Đà Nẵng về tuyến kênh thoát lũ xã Hòa Liên; khu dân cư An Nhơn 1; chợ đầu mối Hòa Phước; đường liên xã Hòa Phú – Hòa Ninh; nghĩa trang Hòa Ninh (giai đoạn 3); dự án mở rộng khu đô thị biệt thự sinh thái, công viên văn hóa làng quê và quần thể du lịch sông nước; tuyến An Phước đi Nam Thành (trục chính thôn Cẩm Toại Tây, xã Hòa Phong). Đồng thời, chưa thông qua 1 công trình, dự án chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa bổ sung năm 2021  tại dự án công viên Bách Thảo (xã Hòa Phú, huyện Hòa Vang).

Trong số 8 công trình, dự án chưa được thông qua thu hồi đất có dự án chợ đầu mối Hòa Phước. Theo quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, chợ đầu mối Hòa Phước có quy mô lớn nhất miền Trung – Tây Nguyên, thay thế Chợ đầu mối Hòa Cường đang nằm ở trung tâm TP. Đà Nẵng hiện nay.

Tháng 7/2021, UBND TP. Đà Nẵng đã thống nhất chủ trương cho phép Công ty TNHH MTV Proton (TP. Hồ Chí Minh) được nghiên cứu quy hoạch, đầu tư Dự án Chợ đầu mối Hòa Phước theo các quy định pháp luật có liên quan. Quy mô chợ có diện tích quy hoạch khoảng hơn 30 ha được thiết kế xây dựng: Khu kinh doanh thủy hải sản, khu kinh doanh gia súc, gia cầm; khu kinh doanh nông sản; khu kinh doanh các ngành hàng khác theo nhu cầu thị trường; khu kinh doanh trái cây, khu kinh doanh tổng hợp; khu kinh doanh rau hành, lagim, ban quản lý chợ, ngân hàng, kho hàng, dịch vụ hậu cần, khu trưng bày và giới thiệu sản phẩm vùng miền; trạm xử lý nước thải; bãi giữ xe, cây xanh, thảm cỏ, mương thoát nước, san bãi bê tông, bãi đổ contaner, đất giao thông…

Dự kiến, tổng vốn đầu tư của dự án trong giai đoạn 1 (2021- 2025) khoảng 400 tỷ đồng; giai đoạn 2 (2026-2030) dự kiến 400 tỷ đồng; nguồn vốn đầu tư từ vốn chủ sở hữu, vốn xã hội hóa… Công ty TNHH MTV Proton, là thành viên của Hiệp hội Chợ đầu mối quốc tế. doanh nghiệp cũng đã đầu tư, quản lý và phát triển một số chợ đầu mối lớn trong cả nước. Trong đó, có thể kể đến như: chợ đầu mối nông sản thực phẩm Dầu Giây, Đồng Nai; chợ đầu mối Hóc Môn; chợ đầu mối Thủ Đức.

Trình Quốc hội thí điểm 3 chính sách đặc thù đối với dự án đầu tư công

Chính phủ trình Quốc hội cho phép thí điểm áp dụng 3 chính sách đặc thù đối với dự án đầu tư công trong phạm vi Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội.

Bên cạnh chính sách tài khoá, tiền tệ, Chính phủ còn trình Quốc hội cho phép thí điểm áp dụng 3 chính sách đặc thù đối với Dự án đầu tư công trong phạm vi Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế- xã hội.

Báo cáo Quốc hội sáng 4/1 trong phiên khai mạc kỳ họp bất thường lần thứ nhất, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, căn cứ tình hình thực tiễn, Chính phủ đã nghiên cứu kỹ, thận trọng, báo cáo xin ý kiến lãnh đạo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép thí điểm áp dụng 3 chính sách đặc thù đối với các dự án đầu tư công trong phạm vi Chương trình.

Thứ nhất, chính sách thí điểm áp dụng hình thức chỉ định thầu đối với các gói thầu tư vấn, gói thầu phục vụ và gói thầu thực hiện đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư; chỉ định thầu xây lắp kèm theo yêu cầu tiết kiệm khoảng 5% dự toán giá trị gói thầu để đẩy nhanh công tác đấu thầu và có thể lựa chọn được các nhà thầu tốt, nhất là các nhà thầu mạnh, đã thực hiện tốt các gói thầu thuộc Dự án cao tốc Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020, các doanh nghiệp xây dựng có uy tín; cho phép chủ đầu tư thỏa thuận với nhà thầu trong hợp đồng mức thưởng tiến độ từ kinh phí tiết kiệm được cho các nhà thầu hoàn thành sớm tiến độ gói thầu từ 3 tháng trở lên. Đồng thời tăng cường kiểm tra giám sát, kiểm toán, thanh tra nhất là trước, trong quá trình thi công xây dựng công trình.

Hai, cho phép chủ đầu tư được khai thác các mỏ khoáng sản nằm trong hồ sơ khảo sát vật liệu xây dựng dự án làm vật liệu xây dựng thông thường (chỉ nhằm thực hiện dự án), không phải thực hiện thủ tục cấp phép. Chủ đầu tư có trách nhiệm quản lý, giám sát việc khai thác, sử dụng mỏ khoáng sản, nộp thuế, phí và thực hiện các nghĩa vụ bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật.

Ba, phân cấp, phân quyền, bố trí nguồn vốn cho UBND cấp tỉnh của một số địa phương có năng lực, kinh nghiệm quản lý và có văn bản đề xuất làm cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện các đoạn tuyến/dự án đường cao tốc theo hình thức đầu tư công đi qua địa bàn; Bộ Giao thông vận tải thực hiện các đoạn tuyến/dự án còn lại theo quy định và tăng cường kiểm tra, giám sát, quản lý nhà nước đoạn tuyến/dự án và phần vốn giao cho địa phương.

Chính phủ cũng đề xuất Quốc hội chỉ đạo Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan chức năng vào cuộc, tham gia giám sát ngay từ đầu việc thực hiện các cơ chế, chính sách đặc thù nhằm bảo đảm công khai, minh bạch, chống tiêu cực, tham nhũng, lợi ích nhóm, góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện, nâng cao hiệu quả đầu tư các dự án thuộc Chương trình.

Thẩm tra nội dung Chính phủ trình, về cơ chế thứ nhất, Ủy ban Kinh tế cho rằng, theo quy định của Luật Đấu thầu, thẩm quyền nêu trên thuộc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ .

Thực tế, qua kết quả giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đối với các dự án giao thông BOT thời gian qua cho thấy việc chỉ định thầu (trong đó có các gói thầu tư vấn) dẫn đến các nhà thầu không bảo đảm năng lực gây thất thoát và giảm hiệu quả đầu tư. Do đó, đa số ý kiến cho rằng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần tiếp tục thực hiện theo đúng quy định pháp luật về đấu thầu. Có ý kiến đề nghị đẩy mạnh đấu thầu qua mạng do ưu điểm rút ngắn được thời gian và bảo đảm sự minh bạch, công khai. Có ý kiến đề nghị nếu Chính phủ thấy cần thiết thì đưa nội dung này vào sửa đổi trong Luật Đấu thầu (đang được Quốc hội xem xét tại dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số luật).

Về cơ chế thứ hai, báo cáo thẩm tra nêu rõ, qua kết quả giám sát của Ủy ban Kinh tế về tình hình thực hiện Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020, nguyên nhân dẫn đến việc kéo dài thời gian cấp phép khai thác mỏ vật liệu là do công tác tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế (công tác tư vấn lập thiết kế kỹ thuật, khảo sát mỏ vật liệu chưa tốt; công tác phối hợp giữa cơ quan trung ương với các cấp chính quyền địa phương trong việc cấp phép mỏ còn hạn chế; một số địa phương chưa quan tâm và quyết liệt trong việc đẩy nhanh quy trình cấp mỏ vật liệu).

Hơn nữa, theo Tờ trình, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 60/NQ-CP ngày 16/06/2021 về việc áp dụng cơ chế đặc thù trong cấp phép khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường cung cấp cho Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020 (sửa đổi bởi Nghị quyết số 133/NQ-CP ngày 19/10/2021). Do vậy, đa số ý kiến đề nghị tiếp tục thực hiện theo các Nghị quyết của Chính phủ và có giải pháp quyết liệt để xử lý những tồn tại, hạn chế trong công tác tổ chức thực hiện.

Có ý kiến đề nghị quy định thủ tục cấp phép rút gọn để tránh lạm dụng, tràn lan; rà soát nguyên nhân của việc cấp phép khai thác mỏ đất mất nhiều thời gian để khắc phục; phân tích kỹ ưu, nhược điểm của giải pháp Chính phủ đề xuất. Trường hợp cần thiết đối với Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc Bắc-Nam giai đoạn 2021-2025, đề nghị Chính phủ trình Quốc hội xem xét khi phê duyệt chủ trương đầu tư dự án này, không áp dụng cơ chế này đối với các dự án khác.

Về cơ chế thứ ba, cơ quan thẩm tra cho rằng, Chính phủ đã đánh giá những hạn chế, bất cập của cơ chế này như: chưa phù hợp với nhiều quy định pháp luật (Luật Đầu tư công, Luật Giao thông đường bộ, Luật Xây dựng, Luật Ngân sách nhà nước…); khó bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, chất lượng và tiến độ của dự án. Chênh lệch lớn trong mức giá đền bù tại các điểm giáp ranh giữa các tỉnh sẽ dễ phát sinh khiếu nại, khiếu kiện. Hơn nữa, năng lực quản lý đầu tư đường cao tốc của các địa phương hiện nay còn rất hạn chế, khi đa số các địa phương chỉ mới quản lý đầu tư các tuyến bộ đường cấp III trở xuống, trong khi đường bộ cao tốc là công trình cấp đặc biệt.

Đồng thời, các dự án đường bộ cao tốc dự kiến giao cho các địa phương có tổng mức đầu tư lớn (khoảng 20.000 tỷ đồng), hơn cả tổng mức vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 – 2025 của một số địa phương có dự án đi qua, trong khi đó việc giải ngân vốn kế hoạch đầu tư công trung hạn hiện nay của các địa phương còn rất chậm.

 Do đó, đa số ý kiến cho rằng, việc giao thêm cho UBND cấp tỉnh làm cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện dự án đường bộ cao tốc có thể làm ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ, việc giải ngân vốn của cả các dự án đường bộ cao tốc và kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 của địa phương theo Nghị quyết số 29/2021/QH15 của Quốc hội.

Chiều nay, Quốc hội thảo luân tại tổ về gói chính sách hỗ trợ chương trình phục  hồi, phát triển kinh tế, xã hội, trong đó có chính sách đặc thù nêu trên. 

Phát triển khu kinh tế Đông Nam thành động lực tăng trưởng kinh tế của Nghệ An

Đề án phát triển Khu kinh tế Đông Nam thành động lực tăng trưởng kinh tế của tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030 vừa được tỉnh này ban hành.

Phó chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Lê Ngọc Hoa cho biết, UBND tỉnh vừa ban hành Kế hoạch (số 812) nhằm triển khai thực hiện “Đề án phát triển Khu kinh tế Đông Nam thành động lực tăng trưởng kinh tế của tỉnh Nghệ An giai đoạn 2021 – 2025, định hướng đến năm 2030”.

Đề án nhằm xây dựng và phát triển Khu kinh tế Đông Nam thành khu vực phát triển kinh tế năng động, có sức hấp dẫn và cạnh tranh cao trong khu vực Bắc Trung Bộ.

Với trọng tâm phát triển kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp đồng bộ, hiện đại gắn liền với xây dựng và khai thác có hiệu quả cảng biển Cửa Lò, Đông Hồi.

Tạo bước đột phá trong thu hút đầu tư, thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gia tăng giá trị sản xuất, tăng nguồn thu ngân sách, giải quyết nhiều việc làm và đóng góp tích  cực vào phát triển kinh tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Theo đó, giai đoạn 2021-2025 sẽ điều chỉnh ranh giới Khu kinh tế Đông Nam lên 80.000ha (bao gồm 70.000ha đất liền và 10.000ha mặt nước biển) trong đó, diện tích khu công nghiệp khoảng 15.000ha, đổi tên thành Khu kinh tế Nghệ An; Quy hoạch phát triển 10 – 12 Khu công nghiệp ngoài Khu kinh tế với diện tích tự nhiên khoảng 4.500ha.

Vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng Khu kinh tế, khu công nghiệp giai đoạn 2021 – 2025 đạt 19.912 tỷ đồng, trong đó: Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước khoảng 1.050 tỷ đồng; nguồn vốn từ doanh nghiệp kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, cảng biển khoảng 17.838 tỷ đồng, nguồn vốn khác (ODA, PPP,…) khoảng 1.024 tỷ đồng.

Thu hút đầu tư 100 – 120 Dự án với tổng vốn đăng ký khoảng 75.000 – 90.000 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư nước ngoài khoảng 2,26 tỷ USD. Vốn đầu tư thực hiện ước đạt trên 60% so với vốn đầu tư đăng ký.

Thu ngân sách trong Khu kinh tế Đông Nam, các khu công nghiệp đến năm 2025 chiếm khoảng 20 – 25% tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh. Đến năm 2025, giải quyết việc làm cho khoảng 80.000 – 100.000 người lao động.

Mục tiêu của Đề án cũng nêu rõ, tỷ lệ các khu công nghiệp đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường đến năm 2025 đạt 100%; đảm bảo 100% các cơ sở sản xuất trong khu kinh tế được cấp giấy phép môi trường, các cơ sở sản xuất trong khu công nghiệp xử lý chất thải (nước thải, chất thải) đạt tiêu chuẩn trước khi thải ra Activate Wil môi trường, không để tình trạng khiếu kiện về ô nhiễm môi trường xảy ra; Đáp ứng khoảng 25 – 30% nhà ở cho công nhân làm việc tại khu kinh tế, khu công nghiệp.

Phát triển kết cấu hạ tầng 3 – 5 khu công nghiệp mới, với diện tích khoảng 1.800 – 2.000 ha. Thu hút đầu tư 130 – 150 dự án với tổng vốn đăng ký khoảng 100.000 – 120.000 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư nước ngoài khoảng 3,67 tỷ USD. Phấn đấu đến năm 2030, thu ngân sách trong Khu kinh tế Đông Nam, các khu công nghiệp chiếm khoảng 45 – 50% tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh; giải quyết việc làm cho khoảng 150.000 – 180.000 người lao động.

UBND tỉnh Nghệ An yêu cầu các đơn vị chức năng liên quan tập trung các nhóm giải pháp phát triển, huy động nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh môi trường xúc tiến đầu tư và cải thiện quá trình thu hút đầu tư… sớm hoàn thiện Đề án đưa Khu kinh tế Đông Nam thành cực tăng trưởng của tỉnh.

Đồng Tháp khởi động nhiều dự án trọng điểm đầu năm mới 2022

UBND tỉnh Đồng Tháp vừa khánh thành và khởi công 03 dự án giao thông quan trọng, đánh dấu sự khởi dầu năm mới với quyết tâm đẩy nhanh phục hồi và tăng trưởng kinh tế.

Theo đó, 3 Dự án gồm: dự án đầu tư xây dựng công trình đường Sở Tư pháp kết nối đường Tân Việt Hoà; Dự án nâng cấp đường ĐT 848 đoạn từ Khu công nghiệp C đến nút giao ĐT 849 và khởi công dự án mở rộng đường ĐT 849 đoạn từ ĐT 848 đến QL80. 

Dự án đầu tư xây dựng đường Sở Tư pháp kết nối đường Tân Việt Hoà là một trong những công trình giao thông trọng điểm của tỉnh Đồng Tháp trong Nghị quyết số 01 của Tỉnh ủy về phát triển kinh tế – xã hội TP. Cao Lãnh. Công trình có tổng mức đầu tư 477 tỷ đồng, dài tuyến 2,2 km nối từ QL 30 (phường Mỹ Phú) đến đường Tân Việt Hòa (xã Tịnh Thới); quy mô lộ giới rộng 26 m, trên tuyến có 2 cầu lớn là cầu Đình Trung và cầu Cao Lãnh, 4 cầu nhỏ và một số cống thoát nước. Đây là công trình rất quan trọng, mang tính chất tạo động lực phát triển, mở rộng không gian đô thị cho TP. Cao Lãnh, kết nối trung tâm thành phố lên hướng cầu Cao Lãnh, góp phần kết nối 2 đô thị Cao Lãnh và Sa Đéc của tỉnh. 

Dự án nâng cấp đường ĐT 848 đoạn từ Khu công nghiệp C đến nút giao ĐT 849 đi qua địa bàn TP Sa Đéc và huyện Lấp Vò với tổng mức đầu tư 79 tỷ đồng, tổng chiều dài 16,7 km, mặt đường được nâng cấp thảm bê tông nhựa nóng, rộng mặt 9 m, cũng đã hoàn thành và đưa và sử dụng. Đây cũng là công trình kết nối 2 đô thị lớn trong tỉnh, góp phần chỉnh trang đô thị, thúc đẩy phát triển du lịch cho thành phố hoa Sa Đéc, tạo thuận lợi trong lưu thông, vận chuyển hàng hóa, đi lại ở khu vực phía Nam sông Tiền.

Dự án mở rộng đường ĐT 849 với tổng mức đầu tư 115 tỷ đồng có tổng chiều dài 8,9 km, mặt đường thảm bê tông nhựa nóng rộng 9m, nền đường rộng 12 m, đảm bảo theo tiêu chuẩn đường cấp III, đồng bằng. Dự kiến đến tháng 11/2022 sẽ hoàn thành. Cùng với 4 công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng trong năm 2021 là: cầu Ngã Cạy, Thầy Lâm, Thủ Ô và Vĩnh Thạnh, khi công trình này hoàn thành sẽ tạo thành một trục giao thông đồng bộ kết nối từ đường ĐT 848 với tuyến N2B (tuyến đường cao tốc trong tương lai) về tuyến QL 80. Điều này hứa hẹn phát huy hiệu quả trong giao thương, thu hút nguồn lực đầu tư, phát triển cho khu vực huyện Lấp Vò cũng như cho cả khu vực các huyện, thành phố phía Nam sông Tiền. 

Ông Trần Trí Quang – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp cho biết: đây là các dự án giao thông quan trọng của tỉnh, để sử dụng hiệu quả dự án công trình và phát triển kinh tế – xã hội, yêu cầu Sở Giao thông Vận tải cần phối hợp chặt chẽ các đơn vị, địa phương liên quan để quản lý, khai thác, vận hành; thường xuyên kiểm tra và thực hiện tốt công tác duy tu bảo dưỡng công trình, đặc biệt trong quá trình vận hành phải đảm bảo an toàn giao thông, nhất là định hướng quản lý, quy hoạch khai thác hiệu quả khu đất 2 bên đường Sở Tư pháp kết nối đường Tân Việt Hoà, góp phần khai thác tối đa lợi ích kinh tế – xã hội từ các dự án.

Phát triển Ninh Kiều xứng tầm đô thị trung tâm TP. Cần Thơ

Với vị thế là quận trung tâm của TP. Cần Thơ, Ninh Kiều triển khai nhiều giải pháp thực hiện mục tiêu kép vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế – xã hội, chăm lo đời sống nhân dân…

Trong năm 2021 vừa qua, quận Ninh Kiều đã công bố Ðồ án Quy hoạch phân khu tỷ lệ 1/5000 quận Ninh Kiều đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đây là quy hoạch định hướng cho Ninh Kiều phát triển xứng tầm là đô thị trung tâm của TP. Cần Thơ; nhất là đẩy mạnh thu hút các dự án thương mại, dịch vụ, khu đô thị, khu dân cư, nhà cao tầng trong thời gian tới. Đồ án quy hoạch cũng nhằm mục đích cải tạo khu vực đô thị hiện hữu của Ninh Kiều thêm phần khang trang, hiện đại.

Theo Đồ án, quận Ninh Kiều được phân ra 4 khu chức năng để kiểm soát phát triển gồm: Khu vực tiếp giáp sông Hậu, khu vực sông Cần Thơ, khu vực trung tâm hiện hữu và khu vực đô thị phát triển mới. Cụ thể:

Phân khu 1: Khu vực tiếp giáp sông Hậu gồm cồn Cái Khế và Cồn Khương (phường Cái Khế), diện tích khoảng 668,49 ha; chức năng là khu vực phát triển đô thị, dịch vụ du lịch sinh thái gắn với cảnh quan sông nước, các nhóm nhà ở và Trung tâm văn hóa – thể dục thể thao…

Phân khu 2: Khu vực tiếp giáp sông Cần Thơ, giới hạn đường 30-4, Hòa Bình (phường Tân An, Hưng Lợi), diện tích khoảng 368,47 ha; chức năng là trung tâm đô thị hiện hữu truyền thống phát triển lâu đời, gắn với đặc trưng văn hóa, lịch sử, Trung tâm chính trị – hành chính…

Phân khu 3: Khu vực trung tâm hiện hữu có diện tích khoảng 1.417,62 ha (phường An Phú, Xuân Khánh, An Bình, An Khánh, An Hòa, Thới Bình, An Nghiệp…). Đây cũng là khu đô thị tiếp giáp với không gian phát triển của quận Bình Thủy và có sự kết nối chặt chẽ về không gian kiến trúc cảnh quan, hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là giao thông và các khu chức năng đô thị…

Phân khu 4: Khu vực đô thị phát triển mới (phường An Bình, tiếp giáp quận Bình Thủy, huyện Phong Điền), diện tích khoảng 458,15 ha; chức năng là khu vực đô thị phát triển mới của quận, tạo gắn kết giữa khu đô thị trung tâm của quận với các khu vực lân cận.

Hiện UBND quận Ninh Kiều giao các ngành chức năng quận tiếp tục tăng cường phổ biến đồ án Quy hoạch phân khu quận Ninh Kiều đến người dân bằng nhiều hình thức trên các phương tiện truyền thông…

Mở rộng hạ tầng, định hướng khung tuyến giao thông chính có tính kết nối là: đường Nguyễn Hiền từ Khu dân cư 91B quy hoạch nối lên đường vành đai phía Tây, đến Mỹ Khánh và hướng ngược lại nối đến Hồ Bún Xáng, ra cầu Rạch Ngỗng, tuyến đường này kết nối với đường Hoàng Quốc Việt, qua quốc lộ 91B, ngang khu dân cư Thới Nhựt, đến Võ Văn Kiệt. Kêu gọi đầu tư xây dựng công viên dọc sông Cần Thơ kết hợp các dịch vụ , tạo ra hình ảnh Ninh Kiều đặc trưng, khang trang, hiện đại trong tương lai…

TP. Cần Thơ dự kiến sẽ chi gần 1.200 tỷ đồng từ ngân sách cải tạo 5 nút giao trên địa bàn quận Ninh Kiều gồm: Mậu Thân – 3/2 – Trần Hưng Đạo; Mậu Thân – Nguyễn Văn Cừ – Võ Văn Kiệt; Nguyễn Văn Linh – Nguyễn Văn Cừ; Nguyễn Văn Linh – 3/2; Nguyễn Văn Linh, thực hiện từ nay đến năm 2025. Từng bước hoàn thiện mạng lưới giao thông và hạ tầng kỹ thuật của Thành phố theo các quy hoạch được duyệt; Đảm bảo hiệu quả đầu tư, góp phần phát triển kinh tế – xã hội cho quận Ninh Kiều nói riêng và TP. Cần Thơ nói chung.

Phê duyệt phương án tài chính hòa chung dòng tiền 5 dự án cao tốc của VEC

Tổng chi phí thực hiện 5 dự án đường cao tốc do Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam – VEC đầu tư sau khi được cập nhật lên tới 104.998 tỷ đồng.

Hạng mục cầu Bình Khánh thuộc Dự án cao tốc Bến Lức - Long Thành.
Hạng mục cầu Bình Khánh thuộc Dự án cao tốc Bến Lức – Long Thành.

Bộ trưởng Bộ GTVT vừa ký Quyết định số 2323/QĐ – BGTVT phê duyệt phương án tài chính hòa chung dòng tiền 5 Dự án đường cao tốc do VEC là chủ đầu tư, phục vụ cho việc thẩm định sử dụng vốn của Hiệp định vay ADB lần 2 (3391-VIE) cho Dự án xây dựng đường cao tốc Bến Lức – Long Thành.

Trong số 5 dự án cao tốc do Bộ GTVT là cơ quan chủ quản dự án, VEC là chủ đầu tư: tuyến cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình được đưa vào khai thác năm 2011, cao tốc Nội Bài – Lào Cai năm 2014, cao tốc Tp HCM – Long Thành – Dầu Giây năm 2014, cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi năm 2017, cao tốc Bến Lức – Long Thành đang thực hiện, dự kiến đưa vào khai thác năm 2024.

Có 11 thông số đầu vào được Bộ GTVT tạm xác định để tính toán phương án tài chính 5 dự án của VEC tại thời điểm hiện nay gồm: tổng chi phí thực hiện; cơ cấu nguồn vốn đầu tư; thời gian đưa vào khai thác; lưu lượng xe; mức thu phí; tốc độ tăng phí; lãi suất Libor trả nợ vốn vay ADB và WB,; tỷ giá ngoại tệ; tỷ lệ lạm phát; hệ số trượt giá xây dựng; chi phí bảo dưỡng, vận hành khai thác.

Bộ GTVT giao VEC có trách nhiệm tiếp tục cập nhật theo các văn bản quy phạm pháp luật, thông báo của các nhà tài trợ, điều kiện thực tế…

Trong số các chi phí đầu vào, đáng chú ý nhất là việc Bộ GTVT tạm xác định tổng chi phí thực hiện 5 dự án do VEC đầu tư, được cập nhật đầy đủ theo giá trị hợp đồng/ giá trị thực hiện/ giá trị quyết toán các gói thầu xây lắp, tư vấn, các chi phí khác đến ngày 31/12/2021 là 104.998 tỷ đồng, bao gồm cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình: 8.579 tỷ đồng; cao tốc Nội Bài – Lào Cai: 26.737 tỷ đồng; cao tốc Tp HCM – Long Thành – Dầu Giây: 18.058 tỷ đồng; cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi: 25.099 tỷ đồng; Dự án Bến Lức – Long Thành (đang thi công dở dang): 26.525 tỷ đồng.

Về cơ cấu nguồn vốn đầu tư, Bộ GTVT tạm xác định tỷ trọng vốn nhà nước và vốn do VEC huy động tại Dự án cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình là 23,3% và 76,7%; Dự án cao tốc Nội Bài – Lào Cai là 19,9% và 80,1%; Dự án cao tốc Tp HCM – Long Thành – Dầu Giây là 33,9% và 64,1%; Dự án cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi là 73,4% và 26,6%; Dự án cao tốc Bến Lức – Long Thành là 61,3% và 38,7%.

Mức phí 5 dự án được áp dụng theo Quyết định số 3789/QĐ-BGTVT ngày 23/11/2016 của Bộ GTVT, trong đó cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình là 1.500đ/PCU/km, cao tốc Nội Bài – Lào Cai là 1.250đ/PCU/km, cao tốc Tp HCM – Long Thành – Dầu Giây là 2.000đ/PCU/km, cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi là 1.500đ/PCU/km, cao tốc Bến Lức – Long Thành là 2.000đ/PCU/km.  Tốc độ tăng phí là định kỳ 3 năm tăng 1 lần, mỗi lần tăng 12%.

Với các thông số đầu vào được xác định và dự báo nêu trên, Bộ GTVT xác định dòng tiền sau thuế 5 dự án đường cao tốc do VEC là chủ đầu tư năm 2022 thiếu hụt 518 tỷ đồng, năm 2023 thiếu hụt 167 tỷ đồng. Tuy nhiên dòng tiền sau thuế lũy kế các năm luôn dương, cụ thể: đến năm 2022 dương 9.631 tỷ đồng; đến năm 2023 dương 9.464 tỷ đồng; đến năm 2025 dương 12.534 tỷ đồng.

VEC đảm bảo khả năng trả nợ Hiệp định vay ADB lần 02 (3391-VIE) cho Dự án xây dựng đường cao tốc Bến Lức – Long Thành.

Cần phải nói thêm rằng, phương án tài chính sau khi được người quyết định đầu tư phê duyệt sẽ được Bộ Tài chính ủy quyền cho cơ quan thẩm định cho vay lại là ngân hàng Phát triển Việt Nam thẩm định tính khả thi để làm cơ sở báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê duyệt việc sử dụng khoản vốn dư trị giá 74,02 triệu USD của Hiệp định vay lần 2 của ADB cho Dự án cao tốc Bến Lức – Long Thành.

Hiện Dự án đường cao tốc Bến Lức – Long Thành đang gặp nhiều vướng mắc về vốn ADB, vốn JICA. Trong đó Hiệp định vay ADB lần 1 đã đóng vào ngày 30/6/2019 nên các gói thầu xây lắp thuộc đoạn tuyến phía Tây đã từng từ năm 2019; đồng thời các hạng mục nhà trạm thu phí, tòa nhà trung tâm giám sát, văn phòng điều hành thu phí cũng chưa thể tổ chức đấu thầu do không được sử dụng vốn vay JICA như dự kiến trước đây.

Để giải quyết vấn đề này, VEC đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép sử dụng phần vốn dư Hiệp định vay ADB lần 02 (3391-VIE) để hoàn thiện các hạng mục nói trên, kịp đưa Dự án xây dựng đường cao tốc Bến Lức – Long Thành vào khai thác trong năm 2023.

Phấn đấu khởi công cao tốc Tân Phú – Bảo Lộc trong tháng 10/2022 và hoàn thành trong năm 2025

Phó Thủ tướng Lê Văn Thành giao UBND tỉnh Lâm Đồng khẩn trương thực hiện các thủ tục theo quy định, phấn đấu khởi công cao tốc Tân Phú – Bảo Lộc trong tháng 10/2022, hoàn thành trong năm 2025.

Văn phòng Chính phủ vừa ban hành Thông báo số 01/TB-VPCP kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành tại buổi làm việc về Dự án xây dựng đường bộ Tân Phú (Đồng Nai) – Bảo Lộc (Lâm Đồng) theo phương thức đối tác công tư.

Phó Thủ tướng đánh giá cao tỉnh Lâm Đồng, trong bối cảnh ngân sách của địa phương còn hạn hẹp nhưng đã rất chủ động, chung tay, góp sức cùng Trung ương triển khai đầu tư đường cao tốc tại địa phương, nhằm sớm hoàn thành hệ thống giao thông kết nối khu vực Tây Nguyên và vùng Đông Nam Bộ, tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội.

Đến nay, tỉnh Lâm Đồng đã đề xuất và được Thủ tướng Chính phủ giao là cơ quan có thẩm quyền triển khai dự án đoạn Tân Phú-Bảo Lộc và đoạn Bảo Lộc – Liên Khương với tổng chiều dài 140 km. Để sớm hoàn thành các thủ tục chuẩn bị đầu tư, khởi công các dự án, Phó Thủ tướng yêu cầu UBND tỉnh Đồng Nai và Lâm Đồng khẩn trương rà soát, hoàn thiện hồ sơ chuyển mục đích sử dụng rừng đoạn Dầu Giây – Tân Phú và đoạn Tân Phú – Bảo Lộc, gửi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trước ngày 10/01/2022. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm tổ chức thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 01 năm 2022.

Bộ Giao thông vận tải, UBND tỉnh Lâm Đồng chỉ đạo các cơ quan, đơn vị phối hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong quá trình hoàn thiện hồ sơ và thẩm định chuyển mục đích sử dụng rừng của các dự án. Phó Thủ tướng cũng giao UBND tỉnh Lâm Đồng khẩn trương thực hiện các thủ tục theo quy định, phấn đấu khởi công đoạn Tân Phú – Bảo Lộc trong tháng 10 năm 2022 và hoàn thành trong năm 2025.

Bộ Giao thông vận tải có trách nhiệm triển khai đầu tư xây dựng đoạn Dầu Giây – Tân Phú đồng bộ với đoạn Tân Phú – Bảo Lộc.

Các bộ, ngành, cơ quan liên quan hỗ trợ tối đa UBND tỉnh Lâm Đồng và UBND tỉnh Đồng Nai thực hiện đầy đủ, nhanh chóng các thủ tục quy định pháp luật trong quá triển khai thực hiện các Dự án nhằm bảo đảm tiến độ, chất lượng.

Thành lập Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Quảng Ninh với tổng diện tích 106 ha

Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Quảng Ninh được xây dựng tại xã Hồng Thái Tây, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh với tổng diện tích tự nhiên toàn khu là 106 ha.

Phó Thủ tướng Lê Văn Thành ký Quyết định số 2263/QĐ-TTg thành lập và ban hành Quy chế hoạt động của Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Quảng Ninh.

Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Quảng Ninh được xây dựng tại xã Hồng Thái Tây, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh với tổng diện tích tự nhiên toàn khu là 106 ha.

Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Quảng Ninh là khu thực hiện các hoạt động ứng dụng thành tựu nghiên cứu ứng dụng, thử nghiệm, trình diễn mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao chủ yếu trong lĩnh vực: Trồng trọt, bảo quản chế biến nông sản (rau, cây ăn quả, hoa cây cảnh), sản xuất chế phẩm sinh học, thuốc điều hòa sinh trưởng cho cây trồng… đào tạo tiếp nhận chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp của tỉnh, vùng và cả nước.

Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Quảng Ninh có các nhiệm vụ chủ yếu như: Thực hiện các hoạt động nghiên cứu ứng dụng, thử nghiệm, trình diễn mô hình sản xuất sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao cho tỉnh, vùng và cả nước; liên kết các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng công nghệ cao, sản xuất sản phẩm ứng dụng công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp; tham gia đào tạo nhân lực công nghệ cao trong lĩnh vực nông nghiệp cho tỉnh, vùng và cả nước…

Các Dự án đầu tư vào Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao để thực hiện việc nghiên cứu ứng dụng, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, dịch vụ công nghệ cao trong nông nghiệp được hưởng các chính sách ưu đãi theo quy định hiện hành.

Hải Dương xây nút giao kết nối đường tỉnh 390 vào cao tốc Hà Nội – Hải Phòng

Chiều 04/01, UBND tỉnh Hải Dương đã tổ chức lễ ký kết thỏa thuận tài trợ xây dựng hoàn thiện nút giao liên thông kết nối đường tỉnh 390 vào đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng.

Phát biểu tại lễ ký kết, ông Triệu Thế Hùng, Chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương khẳng định lễ ký thỏa thuận tài trợ này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với tỉnh Hải Dương ngay trong ngày đầu năm 2022, tạo tiền đề cho sự phát triển bứt phá và nâng cao hiệu quả khai thác sử dụng tuyến đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, góp phần thu hút đầu tư.

Tới đây, công trình này sẽ được khởi công cùng các công trình đường trục Đông – Tây, tỉnh Hải Dương và nút giao liên thông kết nối đường tỉnh 392, huyện Bình Giang vào đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng.

Đồng thời, gửi lời cảm ơn Tổng Công ty Phát triển đô thị Kinh Bắc – CTCP đã tài trợ xây dựng nút giao này; Bộ Giao thông vận tải, Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Tổng Công ty Phát triển hạ tầng và Đầu tư tài chính Việt Nam (VIDIFI) đã quan tâm hướng dẫn, phối hợp, tạo điều kiện cho tỉnh trong quá trình thực hiện tiếp nhận tài trợ công trình.

Để góp phần Dự án được thực hiện thành công đảm bảo đúng các trình tự thủ tục về đầu tư, xây dựng, triển khai bảo đảm đúng quy định, chất lượng, tiến độ đề ra, Chủ tịch UBND tỉnh ủy quyền cho Giám đốc Sở Giao thông vận tải đàm phán, ký kết văn bản thỏa thuận tài trợ (3 bên) với Tổng công ty phát triển đô thị Kinh Bắc và VIDIFI. Giao Sở Kế hoạch và Đầu tư phối hợp, hướng dẫn nhà tài trợ và tham mưu cho UBND tỉnh thực hiện các thủ tục để đầu tư công trình theo đúng quy định của pháp luật.

Ông Hùng cũng đề nghị VIDIFI xây dựng kế hoạch, phương án đầu tư hệ thống thu phí, phương án tài chính bảo đảm đồng bộ để khi hoàn thành nút giao có thể khai thác, sử dụng được ngay. Nhà tài trợ lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực để triển khai dự án, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành công trình. Phấn đấu hoàn thành công trình trong thời gian 18 tháng.

Theo nội dung thỏa thuận, Tổng Công ty Phát triển đô thị Kinh Bắc – CTCP tự nguyện bố trí kinh phí để tổ chức, triển khai thực hiện đầu tư xây dựng hoàn thành toàn bộ công trình nút giao liên thông kết nối đường tỉnh 390, huyện Thanh Hà với đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng. Điểm đầu giao với đường tỉnh 390 tại km1+956; điểm cuối đấu nối với đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng tại km70+660 (trùng với vị trí nút giao đã giải phóng mặt bằng của dự án đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng).

Quy mô công trình gồm các hạng mục chính như 1 cầu vượt đường ô tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng với chiều rộng 15,5m; 1 cống chui dân sinh và 3 km đường. Dự án này có tổng vốn đầu tư 350 tỷ đồng, khởi công trong tháng 1/2022, VIDIFI chịu trách nhiệm đầu tư hệ thống thu phí.

Sau khi hoàn thành việc đầu tư xây dựng, nghiệm thu công trình, nhà tài trợ bàn giao cho UBND tỉnh để giao VIDIFI quản lý, vận hành khai thác, bảo trì công trình. Việc tài trợ và bàn giao công trình này không kèm theo yêu cầu bồi hoàn kinh phí đầu tư; không kèm bất kỳ điều kiện ràng buộc nào, không gây ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng, lợi ích của nhà nước cũng như tính minh bạch trong quá trình lập, thẩm định, phê duyệt và triển khai thực hiện dự án theo quy định của pháp luật.

Dành 3.000 tỷ đồng bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia năm 2022

Tổng kinh phí thực hiện bảo dưỡng thường xuyên và sửa chữa định kỳ, khắc phục hậu quả bão lũ đối với hệ thống hạ tầng đường sắt trị giá 3.000 tỷ đồng sẽ lấy từ ngân sách Nhà nước.

Bộ trưởng Bộ GTVT vừa ký Quyết định số 2218/QĐ – BGTVT về việc phê duyệt kế hoạch bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia năm 2022.

Kinh phí dành cho bảo trì hệ thống đường sắt quốc gia từ nguồn ngân sách chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu thực tế.
Kinh phí dành cho bảo trì hệ thống đường sắt quốc gia từ nguồn ngân sách chỉ đáp ứng được khoảng 40% nhu cầu thực tế.

Theo đó, tổng kinh phí dành cho hoạt động bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia năm 2022 là 3.000 tỷ đồng, tăng khoảng 200 tỷ đồng so với năm 2021, trong đó chi cho nhiệm vụ bảo dưỡng thường xuyên là 2.694 tỷ đồng; chi cho nhiệm vụ sửa chữa định kỳ, kiểm định, khắc phục hậu quả bão lũ bước 2 và sửa chữa đột xuất là 260 tỷ đồng; chi phí dự phòng chưa phân bổ là 45,856 tỷ đồng.

Bộ GTVT giao Cục Đường sắt Việt Nam, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam chịu trách nhiệm về tính chính xác đối với khối lượng bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia; số liệu chính xác của các hồ sơ, tài liệu cung cấp cho Bộ GTVT; chỉ đạo các đơn vị liên quan tổ chức thực hiện công tác bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia theo quy định hiện hành, đảm bảo việc bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia được thường xuyên, liên tục nhằm đảm bảo an toàn giao thông đường sắt, an toàn chạy tàu.

Cũng liên quan đến vấn đề này, Bộ trưởng Bộ GTVT đã chính thức ủy quyền Cục trưởng Cục Đường sắt Việt Nam sử dụng con dấu của Bộ GTVT và thay mặt Bộ trưởng Bộ GTVT ký hợp đồng đặt hàng công tác quản lý, bảo trì kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia năm 2022 với Tổng công ty Đường sắt Việt Nam; thời gian ủy quyền từ ngày 1/1/2022 đến hết ngày 28/2/2023 và ký hồ sơ quyết toán kinh phí, thanh lý hợp đồng đặt hàng bảo trì kế cấu hạ tầng đường sắt quốc gia năm 2021 đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật.

Cục trưởng Cục Đường sắt Việt Nam sử dụng tài khoản, con dấu, bộ máy của Cục Đường sắt Việt Nam để thực hiện các nội dung ủy quyền nêu trên; chịu trách nhiệm toàn diện trước Bộ GTVT và pháp luật về nội dung, các điều khoản, điều kiện của Hợp đồng đặt hàng và các công việc được ủy quyền, đảm bảo tiến độ, chất lượng công việc.

Hệ thống tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt quốc gia do Nhà nước đầu tư là tài sản công, bao gồm cả đất gắn với tài sản quốc gia, được chia thành 2 loại: tài sản quốc gia trực tiếp liên quan đến chạy tàu và tài sản quốc gia không trực tiếp liên quan đến chạy tàu.

Toàn bộ hệ thống tài sản kết cấu hạ tầng đường sắt trị giá hàng chục ngàn tỷ đồng, gồm 15 tuyến đường sắt đi qua 34 tỉnh, thành phố có tổng chiều dài 3.143 km do Tổng công ty Đường sắt Việt Nam được giao trực tiếp quản lý bảo trì, khai thác, sử dụng, đảm bảo hoạt động GTVT đường sắt thông suốt, an toàn, nhưng không được sở hữu hay định đoạt khối tài sản này. Việc bảo trì, đầu tư phát triển khối tài sản này đều do ngân sách nhà nước chi trả.

Đóng điện đường dây 500 kV Tây Hà Nội – Thường Tín

Vào lúc 8h57 phút ngày 5/1/2022, Ban QLDA các công trình điện miền Bắc (NPMB) phối hợp với các đơn vị liên quan đóng điện Dự án đường dây 500kV Tây Hà Nội – Thường Tín.

Dự án này là công trình năng lượng cấp đặc biệt, nhóm A, có tổng mức đầu tư hơn 856,4 tỷ đồng. Tổng công ty Truyền tải điện Quốc gia (EVNNPT) làm chủ đầu tư, giao NPMB quản lý thực hiện dự án, Công ty Truyền tải điện 1 là đơn vị tiếp nhận quản lý vận hành sau khi hoàn thành đóng điện.

Công trình có quy mô xây dựng mới đường dây 500kV mạch kép với tổng chiều dài đường dây 40,7 km, điểm đầu tại trạm biến áp 500kV Tây Hà Nội, điểm cuối tại TBA 500kV Thường Tín với 96 vị trí cột đi qua 4 huyện gồm: Quốc Oai, Chương Mỹ, Thanh Oai, Thường Tín thuộc TP. Hà Nội. 

Do đặc điểm của dự án cấp điện áp 500kV trải dài qua nhiều huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội nên gặp nhiều khó khăn trong công tác hỗ trợ, đền bù giải phóng mặt bằng (đặc biệt là giải phóng mặt bằng hành lang tuyến), phải đến tháng 11/2021, sau nhiều lẫn lỡ hẹn chính quyền địa phương mới bàn giao được mặt bằng khoảng cột cuối cùng (vị trí 61-62) cho NPMB để thi công hoàn thành dự án. Ngoài ra, tuyến đường dây có nhiều điểm giao chéo phức tạp với nhiều đường dây cao thế và chỉ thi công được khi cắt điện.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của dự án, cũng như khó khăn trong công tác BT-GPMB khi đường dây đi qua địa bàn các huyện của TP. Hà Nội, trong thời gian qua, EVNNPT đã chỉ đạo NPMB cùng các đơn vị liên quan tập trung nhân lực, vật lực, bám sát chính quyền địa phương, chỉ đạo sát sao nhà thầu để sớm tháo gỡ vướng mắc, mặt bằng được bàn giao đến đâu, thi công dứt điểm đến đó.

Cùng với đó, NPMB/EVNNPT đã chủ động làm việc với Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia, Trung tâm Điều độ hệ thống điện miền Bắc, Công ty Truyền tải điện 1, Tổng công ty điện lực TP. Hà Nội và các đơn vị liên quan khác để lên lịch cắt điện thi công từ tháng 15/12/2021 đến ngày 03/01/2022 đã hoàn thành, đủ điều kiện đóng điện.

Công trình sau khi hoàn thành đáp ứng nhu cầu tăng trưởng phụ tải của miền Bắc đặc biệt là khu vực Nam sông Hồng trong đó có Thủ đô Hà Nội; Tăng cường liên kết hệ thống điện 500kV xung quanh thành phố Hà Nội, tăng cường độ an toàn, linh hoạt trong vận hành và ổn định cho hệ thống điện quốc gia; Giảm tổn thất điện năng trong lưới truyền tải, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh chung cho hệ thống điện quốc gia.

Đặc biệt, dự án hoàn thành thời điểm này sẵn sàng đảm bảo cung cấp điện cho TP. Hà Nội dịp tết Nguyên đán Nhâm Dần cũng như vào giai đoạn mùa nắng nóng năm nay khi nền kinh tế phục hồi sau khi ảnh hưởng bởi dịch COVID-19.

Bộ GTVT phát cảnh báo tiến độ Dự án cao tốc Bắc Nam đoạn Diễn Châu – Bãi Vọt

Nhà đầu tư được yêu cầu khẩn trương huy động thiết bị, nhân lực thi công Dự án cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017 – 2020, đoạn Diễn Châu – Bãi Vọt theo hình thức PPP.

Theo thông tin của baodautu.vn, Bộ GTVT vừa có công văn gửi Ban quản lý dự án 6, Công ty cổ phần Đầu tư Phúc Thành Hưng về tiến độ triển khai Dự án cao tốc Bắc – Nam phía Đông giai đoạn 2017 – 2020, đoạn Diễn Châu – Bãi Vọt theo hình thức PPP.

Dự án cao tốc Bắc - Nam đoạn Diễn Châu - Bãi Vọt đã được khởi công vào ngày 22/5/2021.
Dự án cao tốc Bắc – Nam đoạn Diễn Châu – Bãi Vọt đã được khởi công vào ngày 22/5/2021.

Công văn nêu rõ, thời gian vừa qua, Bộ GTVT và các đơn vị trực thuộc đã tạo mọi điều kiện, hỗ trợ tối đa để nhà đầu tư/doanh nghiệp dự án hoàn thiện các thủ tục pháp lý theo đúng thẩm quyền và tuân thủ các quy định của pháp luật để triển khai thực hiện thi công.

Tuy nhiên, đến nay dự án thành phần đoạn Diễn Châu – Bãi Vọt vẫn triển khai rất chậm, không đáp ứng tiến độ yêu cầu.

Để đảm bảo tiến độ,  Bộ GTVT yêu cầu Ban quản lý dự án 6, trong vai trò đại diện Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phối hợp chặt chẽ với UBND tỉnh Nghệ An, các sở, ban, ngành có liêu quan và Hội đồng GPMB địa phương để giải quyết dứt điểm các tồn tại, vướng mắc, sớm hoàn thành, bàn giao toàn bộ mặt bằng cho Dự án.

Bộ GTVT đặc biệt lưu ý Ban quản lý dự án 6 việc phối hợp thực hiện trong công tác cấp phép, nâng công suất khai thác mỏ vật liệu đáp ứng nguồn vật liệu cho nhà thầu triển khai thi công đảm bảo tiến độ, chất lượng của Dự án. Đồng thời tăng cường cán bộ chỉ đạo điều hành, bám sát hiện trường, phối hợp với địa phương và nhà đầu tư/doanh nghiệp dự án để triển khai thực hiện, kịp thời tháo gỡ các tồn tại, vướng mắc đảm bảo tiến độ chung của Dự án.

Do đây là công trình có quy mô, tính chất kỹ thuật cao, nhiều hạng mục thi công phức tạp (hầm Thần Vũ), vì vậy Bộ GTVT yêu cầu nhà đầu tư/doanh nghiệp dự án cần tăng cường nhân lực, kiện toàn bộ máy chỉ đạo điều hành có đủ năng lực ngay tại công trường để lập kế hoạch phương án thi công tổng thể, chi tiết đối với từng gói thầu.

Liên quan đến việc huy động vốn, Bộ GTVT yêu cầu nhà đầu tư khẩn trương đàm phán, hoàn thiện các thủ tục pháp lý để ký kết hợp đồng vay vốn với các ngân hàng theo đúng quy định của hợp đồng dự án; bố trí đủ nguồn vốn chủ sở hữu, đảm bảo việc triển khai thi công đáp ứng tiến độ yêu cầu.

Dự án đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông, đoạn Diễn Châu – Bãi Vọt dài 49 km, thuộc phạm vi 2 tỉnh Nghệ An, có tổng vốn đầu tư 11.157,82 tỷ đồng, gồm nguồn vốn Nhà đầu 5.090,09 tỷ đồng (trong đó Vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư là 1.023 tỷ đồng) và nguồn vốn nhà nước là 6.067,73 tỷ đồng.

hợp đồng BOT số: 02/HĐ-BGTVT ngày 13/5/2021 ký giữa Bộ GTVT với Liên danh nhà đầu tư là Công ty TNHH Hòa Hiệp- CIENCO4 – Công ty TNHH Đầu tư Núi Hồng – Tổng Công ty Xây dựng Trường Sơn – Công ty Đầu tư và Xây dựng VINA2 và Công ty cổ phần Đầu tư Phúc Thành Hưng (Doanh nghiệp dự án) có quy định: “Trong vòng 6 tháng kể từ ngày hợp đồng này được ký kết, trường hợp nhà đầu tư không ký kết được hợp đồng vay vốn đáp ứng yêu cầu về mức vốn vay, điều kiện giải ngân theo quy định để giải ngân vốn cho Dự án. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và tịch thu bảo đảm thực hiện hợp đồng”.

Vĩnh Long tập trung phát triển hệ thống logistics

Tỉnh Vĩnh Long vừa đưa vào quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics lồng ghép vào Quy hoạch phát triển thương mại định hướng đến năm 2030.

Theo đó, Vĩnh Long sẽ tập trung đầu tư nâng cấp các cảng thành trung tâm logistics cấp vùng: cảng Vĩnh Long (TP. Vĩnh Long) với chức năng chủ yếu là trung chuyển hàng hóa (gạo, vật liệu xây dựng,…) và cảng Bình Minh (TX. Bình Minh) có khả năng kết nối với các vùng trong tỉnh và TP. Cần Thơ.

Phát triển đô thị trung tâm Cao Lãnh ngày một khang trang và hiện đại
Phát triển đô thị trung tâm Cao Lãnh ngày một khang trang và hiện đại

Dự kiến, nguồn huy động vốn đầu tư từ xã hội hóa là 770 tỷ đồng (99,2%) và từ vốn ngân sách 6,63 tỷ đồng (0,8%).

Về đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ vận tải sẽ đầu tư xây dựng bến bãi, điểm dừng, nhà chờ; ưu tiên cho thuê đất theo giá ưu đãi cho các doanh nghiệp vận tải để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ trên cơ sở các Dự án được các cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Ngành giao thông vận tải Vĩnh Long huy động bằng nhiều hình thức để phát huy lợi thế về giao thông thủy, nhất là đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư phương tiện, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ giao thông công cộng.

Vĩnh Long hiện có các luồng hàng hải gồm luồng hàng hải sông Tiền dài 74 km, là cửa ngõ ra Biển Đông của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, kết nối trực tiếp với tuyến đường thủy kinh Chợ Gạo, tàu thuyền có thể từ các cảng biển Mỹ Tho, Đồng Tháp và sang Campuchia; luồng hàng hải sông Hậu (luồng Định An – Cần Thơ) dài 103 km, là cửa ngõ ra Biển Đông của Đồng bằng sông Cửu Long, tàu thuyền có thể đi đến các cảng biển Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp và sang Campuchia.

Có 4 tuyến vận tải hàng hóa đường thủy nội địa quốc gia, gồm 2 tuyến đi qua sông Măng Thít, 1 tuyến trên sông Hậu và 1 tuyến trên sông Cổ Chiên (tuyến Sài Gòn – Cà Mau (qua kinh Xà No) dài 336 km, tuyến duyên hải Sài Gòn – Cà Mau dài 367 km, tuyến sông Cổ Chiên dài 109 km, tuyến cửa Định An – biên giới Campuchia dài 211 km).

Đồng Tháp đẩy nhanh giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công ngay từ đầu năm

UBND tỉnh Đồng Tháp vừa có Chỉ thị 02/UBND-ĐT về việc tập trung nguồn lực, đẩy nhanh thực hiện giải ngân vốn đầu tư công và thủ tục đầu tư giai đoạn 2022-2025 ngay những ngày đầu năm mới.

Theo đó, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp Phạm Thiện Nghĩa yêu cầu Thủ trưởng các sở, ban, ngành tỉnh (là chủ đầu tư Dự án sử dụng vốn đầu tư công) và Chủ tịch UBND các huyện, thành phố tập trung thực hiện một số nội dung chủ yếu.

Đối với kế hoạch năm 2021, UBND tỉnh yêu cầu các đơn vị thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các Nghị quyết của Chính phủ và chỉ đạo của tỉnh về đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2021; xác định giải ngân vốn đầu tư công là một trong các nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng nhất trong năm; chịu trách nhiệm toàn diện trước Chủ tịch UBND tỉnh về việc thực hiện, giải ngân vốn năm 2021 và thủ tục đầu tư dự án khởi công mới của năm tiếp theo. Trường hợp không hoàn thành kế hoạch thì kiểm điểm trách nhiệm tập thể, người đứng đầu, cá nhân liên quan.

Đối với kế hoạch năm 2022, triển khai quyết liệt công tác phân bổ, giao chi tiết kế hoạch vốn đầu tư công năm 2022 đã được cấp thẩm quyền quyết định, khẩn trương nhập dự toán các dự án trên Hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc (TABMIS); cập nhật thông tin của từng dự án lên Hệ thống thông tin (trừ danh mục dự án thuộc bí mật nhà nước) về đầu tư công theo đúng quy định tại Điều 51 Nghị định số 40/2020/NĐ-CP ngày 06/4/2020 của Chính phủ và các quy định hiện hành có liên quan.

Đáng chú ý, UBND tỉnh chỉ đạo trong quý I/2022 này, các sở ngành và địa phương phải hoàn thành các thủ tục để thu hồi vốn ứng trước, thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản của các dự án được giao kế hoạch vốn năm 2022. Chậm nhất đến ngày 15/02/2022 phải hoàn thành các thủ tục đầu tư (Quyết định phê duyệt chủ trương đầu tư) đối với dự án khởi công mới trong giai đoạn 2023 – 2025; đảm bảo thủ tục bố trí vốn (Quyết định đầu tư dự án) trước ngày 30/6/2022 đối với công trình khởi công mới dự kiến năm 2023.

Chủ tịch UBND tỉnh đề nghị các Bí thư Huyện ủy, Bí thư Thành ủy thống nhất xác định giải ngân vốn đầu tư công là một trong các nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng nhất trong năm của địa phương; tiếp tục quan tâm, tăng cường theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các dự án sử dụng vốn đầu tư công của UBND cấp huyện.

Đà Nẵng: Đầu tư Khu Công nghiệp Hoà Ninh theo mô hình sinh thái và thông minh

Theo đơn vị tư vấn quy hoạch, Khu Công nghiệp Hoà Ninh (đầu tư mới hoàn toàn) sẽ được đầu tư theo hướng KCN sinh thái và thông minh, một hình mẫu KCN của Đà Nẵng.

Ông Trần Phước Sơn, Phó Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng cùng đại diện Ban Quản lý Khu Công nghệ cao và các KCN Đà Nẵng vừa trực tiếp nghe tư vấn quy hoạch (Nippon Koei) và đơn vị đề xuất ý tưởng (Tập đoàn Phát Đạt) về KCN Hoà Ninh.

Theo đơn vị tư vấn, trong định hướng chung phát triển các KCN của Đà Nẵng, KCN Hòa Ninh nằm cách trung tâm thành phố 22km về phía Tây, gần tuyến đường vành đai phía Tây nối ra đường Nguyễn Tất Thành nối dài, có đầy đủ các điều kiện để phát triển thành KCN tập trung; kết hợp với Khu Công nghệ cao, Khu công nghệ thông tin tập trung, các khu, cụm công nghiệp hỗ trợ… tạo nên một mạng lưới khu công nghiệp cộng sinh, đa dạng trên địa bàn thành phố.

Với tổng diện tích đất nghiên cứu hơn 400 ha, việc quy hoạch đặt mục tiêu hình thành một khu công nghiệp sinh thái – thông minh có cơ sở hạ tầng đồng bộ, đảm bảo hợp lý trong sản xuất, bố trí bến bãi, kho tàng theo mô hình cộng sinh công nghiệp, sử dụng các hệ thống hạ tầng kỹ thuật hiện đại, không gây ảnh hướng đến môi trường; hướng đến thu hút phát triển các ngành công nghiệp, sản xuất ô tô – xe máy điện, công nghiệp thực phẩm, điện – điện tử – điện gia dụng, nội thất cao cấp; dự kiến thu hút hơn 14.000 lao động chất lượng cao.

Theo đề xuất của đơn vị tư vấn, việc quy hoạch KCN Hòa Ninh được thực hiện theo nguyên tắc đảm bảo thấp nhất việc tác động đến môi trường tự nhiên; tối đa hóa hiệu quả sử dụng đất, nguồn nước, năng lượng tái tạo; tạo giá trị gia tăng cho cho các nguồn lực tại địa phương, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu; tạo lợi thế cạnh tranh trong thu hút đầu tư thứ cấp.

Cơ cấu tổ chức không gian bao gồm các hạng mục: đất xây dựng các nhà máy xí nghiệp công nghiệp; đất trung tâm hành chính và dịch vụ; đất công viên, thể dục thể thao kết hợp mặt nước và cây xanh cách ly; đất công trình đầu mối kỹ thuật; đất xây dựng nhà ở công nhân; đất xây dựng khu đào tạo. Đồng thời, bố trí các lô đất xí nghiệp có cùng tính chất, quy mô, có liên quan với nhau về mặt sản xuất và xử lý các chất thải công nghiệp; đảm bảo tính linh hoạt về khả năng lựa chọn quy mô lô đất để phù hợp với dây chuyền công nghệ…

Ghi nhận những ý tưởng của tư vấn và tài trợ quy hoạch, ông Trần Phước Sơn, Phó Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng đánh giá cao và biểu dương sự nỗ lực, tích cực Ban Quản lý khu công nghệ cao và các khu công nghiệp Đà Nẵng trong việc lập quy hoạch, thu hút, kêu gọi đầu tư hình thành KCN Hòa Ninh thời gian qua.

Phó Chủ tịch UBND TP. Đà Nẵng Trần Phước Sơn cũng đánh giá cao ý tưởng quy hoạch của đơn vị tư vấn, đồng thời đề nghị đơn vị tư vấn tiếp thu những góp ý, đề xuất tại cuộc họp, cả về chuyên môn và tính pháp lý, để điều chỉnh, bổ sung ý tưởng quy hoạch cho phù hợp với những tiêu chí, quy định của thành phố.

“Giao Ban Quản lý khu công nghệ cao và các khu công nghiệp Đà Nẵng phối hợp các sở, ngành chức năng khẩn trương xây dựng kế hoạch tiến độ, lộ trình chi tiết các bước triển khai Dự án, trên tinh thần xác định được nhà đầu tư thông qua đấu thầu theo quy định, để khởi công dự án trong năm 2022”, ông Trần Phước Sơn chỉ đạo và nhấn mạnh: “KCN Hòa Ninh phải được quy hoạch thành một mô hình kiểu mẫu về KCN theo tiêu chuẩn quốc tế, phù hợp với định hướng thành phố môi trường, thành phố thông minh và chuyển đổi số”.

Đà Nẵng dành hơn 7.800 tỷ đồng cho đầu tư công năm 2022

Tổng nguồn vốn đầu tư công năm 2022 trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng là hơn 7.800 tỷ đồng; Thành phố cũng bố trí vốn đầu tư công cho các tỉnh Nam Lào.

Chủ tịch UBND TP.Đà Nẵng, ông Lê Trung Chinh (giữa) kiểm tra các công trình, Dự án đầu tư công trên địa bàn thành phố.
Chủ tịch UBND TP.Đà Nẵng, ông Lê Trung Chinh (giữa) kiểm tra các công trình, dự án đầu tư công trên địa bàn thành phố.

Hội đồng nhân dân Thành phố Đà Nẵng vừa ban hành Nghị quyết số 70/NQ-HĐND về kế hoạch đầu tư công năm 2022 thành phố Đà Nẵng.

Theo Kế hoạch này, tổng nguồn vốn đầu tư công năm 2022 là 7.880,731 tỷ đồng. Trong đó, vốn trong nước 7.333 tỷ đồng gồm: nguồn ngân sách tập trung là 2.019 tỷ đồng; cụ thể ngân sách Thành phố 1.961 tỷ đồng, ngân sách huyện Hòa Vang 58 tỷ đồng. Nguồn thu tiền sử dụng đất 2.700 tỷ đồng; trong đó ngân sách Thành phố 2.600 tỷ đồng, ngân sách huyện Hòa Vang 100 tỷ đồng; nguồn thu xổ số kiến thiết 160 tỷ đồng; nguồn vốn ngân sách Trung ương bổ sung có mục tiêu 535,948 tỷ đồng; nguồn khác 1.917,395 tỷ đồng; nguồn vốn nước ngoài (ODA) là 547,5 tỷ đồng.

Thành phố Đà Nẵng cũng sẽ tập trung bố trí vốn đầu tư công năm 2022 cho các tỉnh Nam Lào theo ghi nhớ của lãnh đạo Thành phố đã ký kết với các tỉnh của nước bạn Lào.

Ngoài ra, Thành phố Đà Nẵng sẽ bố trí vốn đầu tư phân cấp cho huyện Hòa Vang; ưu tiên bố trí vốn đối ứng cho các Dự án ODA theo tiến độ giải ngân; bố trí vốn cho các công trình, nhóm công trình trọng điểm mang tính động lực…

Trong năm 2021, theo Kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ giao, tổng nguồn vốn đầu tư công đối với thành phố Đà Nẵng là 6.935 tỷ đồng. Kế hoạch vốn được HĐND thành phố giao là 9.699 tỷ đồng.  Tính đến ngày 17/12/2021, giá trị giải ngân của thành phố Đà Nẵng đạt 5.390 tỷ đồng, bằng 77,7% kế hoạch TW giao; 66% kế hoạch thành phố giao, cao hơn tỷ lệ cùng kỳ năm 2020 (đạt 56,2% kế hoạch thành phố giao). Trong đó, vốn trong nước giải ngân 4.995 tỷ đồng, đạt 79,5% kế hoạch TW giao; 66,5% kế hoạch Thành phố giao; vốn ODA: giải ngân 395,185 tỷ đồng, đạt 57,5% kế hoạch giao.

Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng, ông Lê Trung Chinh cho biết, qua công tác giải ngân năm 2021, Thành phố đánh giá và có những giải pháp để chủ động hơn trong tiến độ, chất lượng công tác giải ngân 2022. Trong đó sẽ kiểm soát chặt chẽ việc bố trí kế hoạch vốn, chỉ bố trí vốn thực hiện cho các công trình, dự án đủ điều kiện bố trí vốn theo quy định và tiếp tục rà soát, cắt giảm tối đa các thủ tục hành chính. Giao chỉ tiêu, kế hoạch giải ngân cụ thể cho từng đơn vị được giao vốn ngay từ cuối năm 2021 theo từng mốc thời gian cụ thể.

Ngoài ra, TP. Đà Nẵng sẽ nâng cao chất lượng của chủ đầu tư, quản lý dự án trong công tác quản lý, điều hành dự án, nhất là phải đánh giá lựa chọn được nhà thầu tư vấn, nhà thầu thi công đảm bảo năng lực, kinh nghiệm để thực hiện dự án từ khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện dự án, bàn giao đưa công trình vào sử dụng và quyết toán dự án hoàn thành.

Xem xét, điều chuyển nhiệm vụ chủ đầu tư, quản lý dự án hoặc không giao thêm nhiệm vụ đối với các Ban QLDA, chủ đầu tư có tiến độ giải ngân chậm so với chỉ tiêu đề ra; nếu giải ngân chậm sẽ điều chuyển kế hoạch vốn sang dự án của chủ đầu tư khác theo quy định.

Thủ tướng giao đầu mối xây dựng cơ chế “cảng mở” tại cụm cảng container Cái Mép

Cơ chế này sẽ giúp khu cảng container Cái Mép phát huy được vai trò trung chuyển quốc tế, đồng thời giúp giảm chi phí logistic cho hàng hóa xuất/nhập khẩu của cả nước.

Đây là một trong những nội dung đáng chú ý trong Thông báo số 3/TB – VPCP ngày 6/1/2022 thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại buổi làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bà Rịa – Vũng Tàu vào chiều ngày 18/12/2021.

Siêu tàu container Margrethe Maersk, dài 399 m, rộng 59 m, trọng tải hơn 214.000 tấn, thuộc nhóm tàu container lớn nhất thế giới cập cảng quốc tế Cái Mép, sáng 26/10/2020.
Siêu tàu container Margrethe Maersk, dài 399 m, rộng 59 m, trọng tải hơn 214.000 tấn, thuộc nhóm tàu container lớn nhất thế giới cập cảng quốc tế Cái Mép, sáng 26/10/2020.

Theo đó, Thủ tướng đồng ý với kiến nghị của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu về chủ trương thí điểm cơ chế cảng mở tại cụm cảng container khu vực Cái Mép.

Thủ tướng giao Bộ tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ GTVT, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và các cơ quan liên quan nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách thí điểm “cảng mở” tại cụm cảng container khu vực Cái Mép, trình cấp có thẩm quyền theo quy định trong quý II/2022.

Về đề nghị trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư Dự án Trung tâm Logistics Cái Mép Hạ (trong đó có việc chuyển mục đích sử dụng đất rừng trong phạm vi Dự án), Thủ tướng giao UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tập trung lãnh đạo, chỉ đạo khẩn trương hoàn thiện Hồ sơ đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư Dự án để báo cáo Thủ tướng Chính phủ giao Hội đồng thẩm định Nhà nước tổ chức thẩm định, báo cáo Chính phủ xem xét trong Quý I/2022 để trình cấp có thẩm quyền quyết định.

Trước đó, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (VIMC) và UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã thống nhất kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét áp dụng cơ chế cảng mở cho khu vực các bến cảng tại Cái Mép Thị Vải gồm SP-PSA, TCIT, TCCT, CMIT, TCTT, SSIT, GEMALINK và cảng tổng hợp và trung tâm Logistic Camil, ICD có cảng thủy khu vực Cái Mép.

Để cơ chế này được vận hành, các phương tiện của đơn vị vận hành cảng mở cần được Bộ GTVT cho phép lưu thông trên đường 965 từ SP-PSA đến Gemalink và ngược lại. Điều kiện thứ hai là Tổng cục Hải quan phải chấp thuận để hàng hóa luân chuyển trong cảng mở không phải làm thủ tục hải quan, không phải thực hiện thêm một lần niêm phong kẹp chì để chuyển cửa khẩu, giảm chi phí cho hãng tầu.

“Đây là cơ chế cần thiết để liên kết khai thác và luân chuyển hàng hóa giữa các bến cảng trong khu vực Cái Mép Thị Vải, nhằm tối ưu hóa công suất khai thác và tận dụng tối đa cầu bến của nhau, giải quyết được các hạn chế về cầu bến như hiện nay, giảm chi phí logistic cho hàng hóa xuất nhập khẩu thông qua khu vực”, ông Lê Anh Sơn, Chủ tịch HĐQT VIMC cho biết.

Được biết, hoạt động của cảng mở dựa trên hệ thống công nghệ thông tin kết nối với các cảng hiện hữu và dữ liệu của hải quan để đảm bảo kiểm soát hàng hóa trong cảng mở hoàn toàn chính xác. Hàng hóa vận chuyển trong cảng mở không phải mở tờ khai chuyển tiếp và niêm phong kẹp chì một lần nữa.

Đơn vị vận hành cảng mở sẽ cung cấp phương tiện vận chuyển đặc thù chạy nội bộ trong phạm vị cảng mở với thiết kế nhận diện riêng để thuận tiện cho cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra và giám sát hàng hóa luân chuyển trong cảng mở.

Với cơ chế này, trách nhiệm của đơn vị vận hành cảng mở tương tự như một chủ cảng, đảm bảo hàng hóa nguyên cont., nguyên chì từ cảng nhận đến cảng đích trong phạm vi cảng mở.

Theo VIMC, cơ chế cảng mở không làm thay đổi phương thức quản lý hàng hóa tại mỗi bến cảng, tại mỗi chi cục hải quan. Các chi cục Hải quan trong khu vực cảng mở chỉ bổ sung nghiệp vụ quản lý luân chuyển hàng hóa trong cảng mở thông qua hệ thống công nghệ thông tin và phương tiện vận chuyển đặc thù của đơn vị vận hành cảng mở.

Trong khi đó, nếu áp dụng cơ chế cảng mở tại cụm cảng Cái Mép – Thị Vải sẽ tạo ra mối liên kết khai thác giữa các bến cảng liền kề nhằm tối ưu hóa công suất khai thác và tận dụng tối đa cầu bến của nhau, giải quyết được các hạn chế về cầu bến như hiện nay.

VIMC ước tính nếu hai cảng liền kề (ví dụ như CMIT và TCTT với điều kiện cầu bến tương đồng) liên kết có thể khai thác thêm bến thứ ba ở giữa và tăng thêm 50% công suất của hai cảng khoảng 1,2 triệu TEU mỗi năm. Nếu giải pháp kết nối giữa 2 cảng CMIT và TCTT được thực hiện thành công thì mỗi năm riêng CMIT sẽ tăng doanh thu khoảng 20 triệu USD.

Hiện nay 80-85% lượng hàng xuất nhập khẩu thông qua các cảng Cái Mép được vận chuyển bằng xà lan, tương ứng khoảng 3,7 triệu teu/năm được vận chuyển bằng xà lan từ Cái Mép đến Tp HCM và ngược lại. Chi phí vận chuyển bằng xà lan khoảng 111 triệu USD/năm.

Lãnh đạo VIMC cho rằng, nếu hàng hóa được kết nối thông suốt giữa các cảng thì phương tiện vận tải không phải đợi cầu tầu, tốc độ quay vòng phương tiện cao, hơn nữa sẽ khai thác tối đa tải trọng của phương tiện, hiệu quả của khai thác của phương tiện sẽ cao, tương ứng chi phí vận chuyển sẽ giảm. Dự kiến khi giải pháp cảng mở được thực hiện thì chi phí vận chuyển xà lan sẽ giảm khoảng 10-15%, mỗi năm sẽ tiết kiệm được khoảng 15 triệu USD.

Theo Quyết định số 1579/QĐ-TTg ngày 22/9/2021 của Thủ tướng Chính phủ, các cảng Khu cảng Cái Mép Thị Vải được phân loại là cảng đặc biệt trong hệ thống cảng Việt Nam, khu bến Cái Mép có chức năng trung chuyển hàng hóa.

Hiện tổng chiều dài các bến cảng container khu vực Cái Mép khoảng 5.470 m, được chia thành 8 cảng. Các bến cảng được phân bổ rải rác và hầu hết đều hạn chế về chiều dài cầu tầu (trung bình 600m bến/cảng) trong khi kích cỡ tàu cập Cái Mép ngày càng tăng, chiều dài tầu lên tới 400m do vậy tại mỗi thời điểm, mỗi cảng chỉ có thể tiếp nhận được 1 tầu mẹ.