(SeaPRwire) – Trong một động thái táo bạo gây sửng sốt thế giới, đã công bố đề xuất di dời 1,8 triệu người Palestine khỏi Gaza, tìm cách xây dựng lại cuộc sống của họ ở những nơi mới. Phát biểu trước giới truyền thông cùng với Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu tại Nhà Trắng, ông Trump đã phác thảo tầm nhìn đầy tham vọng của mình đối với Dải Gaza.
“Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng Dải Gaza, nơi đã trở thành biểu tượng của… trong nhiều thập kỷ – tàn phá đối với người dân sinh sống ở đó và đối với những người ở gần đó – không nên trải qua một chu kỳ xây dựng lại và chiếm đóng bởi cùng những người đã chiến đấu, sống, chết và chịu đựng ở nơi đó.”
Tổng thống nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học hỏi từ lịch sử. “Lịch sử, các bạn biết đấy, không thể cứ lặp lại mãi được,” ông Trump nhận xét, kêu gọi từ bỏ những cách tiếp cận thất bại trong quá khứ.
“Từ gần 4.000 năm trước, từ thời của các Tổ phụ Abraham & Isaac, đến thời của vị Quan tòa Samson hùng mạnh trong Kinh thánh và người Phi-li-tin; từ triều đại của Solomon và các vị vua của triều đại David, và kéo dài hàng thiên niên kỷ; lãnh thổ Gaza ngày nay đã là nơi cả xung đột và hy vọng, chuyển giao từ người cai trị này sang người cai trị khác, với tiềm năng thịnh vượng ngay trước mắt, nhưng ngoài những giai đoạn ngắn ngủi, hòa bình cho cư dân và các nước láng giềng vẫn là điều khó nắm bắt,” Ze’ev Orenstein, giám đốc phụ trách các vấn đề quốc tế của Tổ chức Thành phố David ở Jerusalem, nói với Digital
Lịch sử của Gaza mà Trump đề cập đến vừa dài lại vừa đầy biến động.
Lịch sử của Gaza bắt nguồn từ gần 4.000 năm trước, thường xuyên xuất hiện trong các câu chuyện trong Kinh thánh. Đó là một trong năm thành phố chính của người Phi-li-tin, những người đến từ biển Aegean, nổi tiếng với những cuộc xung đột với người Israel. Câu chuyện về Samson, người đã phá hủy một đền thờ của người Phi-li-tin, là một trong những câu chuyện được ghi chép sớm nhất về sự hủy diệt và xây dựng lại ở Gaza. Qua nhiều thế kỷ, nó đã bị người Ai Cập, Babylon và Ba Tư chinh phục, mỗi người mang đến những người cai trị mới và buộc phải di dời dân cư. Ngay cả khi đó, Gaza là một vùng đất mà người dân đến và đi, thường không phải do lựa chọn của họ.
Dưới thời Đế chế Ottoman (1517-1917), Gaza là một thành trì quân sự. Người Ottoman sử dụng nó như một vùng đệm, và trong khi một số giai đoạn chứng kiến sự phát triển, nó thường bị bỏ hoang trong các cuộc chiến tranh. Năm 1799, lực lượng của Napoleon đã chiếm đóng nó một thời gian ngắn trước khi rút lui. Một lần nữa, Gaza bị tàn phá, và dân số của nó phải bắt đầu lại.
Khi người Anh tiếp quản năm 1917, Gaza trở thành một phần của Chiến lệnh Palestine của Anh. Căng thẳng giữa người Do Thái và người Ả Rập leo thang, dẫn đến các cuộc đụng độ bạo lực. Đến năm 1948, khi Israel tuyên bố độc lập, hàng nghìn người tị nạn Palestine đã chạy đến Gaza, biến nó thành một khu vực quá tải dưới sự cai trị của Ai Cập.
Từ năm 1949 đến năm 1967, Ai Cập kiểm soát Gaza nhưng không bao giờ sáp nhập nó. Người Palestine sống ở đó không được cấp quốc tịch Ai Cập, và Gaza vẫn nghèo đói và bất ổn về chính trị. đã chiếm đóng nó trong Chiến tranh Sáu ngày, chu kỳ di dời và tàn phá lại tiếp tục.
Sau khi Israel chiếm đóng Gaza trong Chiến tranh Sáu ngày năm 1967, các khu định cư của người Do Thái đã được xây dựng trong khu vực ven biển, tạo ra sự tương tác kinh tế giữa hai dân tộc – nhưng cũng làm tăng mức độ căng thẳng.
Amir Tibon, một người sống sót sau vụ tấn công ngày 7 tháng 10, mô tả trong cuốn sách “Những cánh cửa Gaza”, người Palestine đã tìm hiểu cuộc sống của những người hàng xóm Israel, những người có mức sống cao hơn đáng kể. Chẳng mấy chốc, hàng trăm nghìn người Gaza sẽ vào Israel mỗi ngày để làm việc, và nền kinh tế của Gaza trở nên gắn liền với Israel, nhưng sự thù địch vẫn còn. Vào những năm 1980, tổ chức Hồi giáo Hamas trở thành một lực lượng nổi lên trong số người Palestine ở Gaza, cuối cùng đã thành công trong việc chiếm đóng khu vực và biến nó thành một pháo đài khủng bố.
Sau Thỏa thuận Oslo, Chính quyền Palestine (PA) đã nắm quyền kiểm soát hành chính Gaza vào những năm 1990. Lần đầu tiên, có hy vọng về việc tự trị của người Palestine, nhưng tham nhũng và xung đột nội bộ đã hoành hành trong việc quản trị của PA. Trong cuộc Intifada thứ hai (2000-2005), các vụ tấn công khủng bố từ Gaza leo thang, dẫn đến các chiến dịch quân sự của Israel đã tàn phá khu vực một lần nữa.
Năm 2005, Israel rút khỏi Gaza, xóa bỏ tất cả các khu định cư. Năm 2007, cuộc bầu cử được tổ chức, và , lật đổ PA. Từ đó, Hamas đã tham gia vào các cuộc tấn công liên tiếp vào Israel, dẫn đến sự tàn phá và khủng hoảng nhân đạo. Với việc Hamas ưu tiên khủng bố hơn là quản trị, Gaza vẫn trong tình trạng chiến tranh và bị bao vây. Ngày nay, đây là một trong những nơi đông dân nhất thế giới, với 2 triệu cư dân.
Richard Goldberg, một cố vấn cấp cao tại Quỹ Bảo vệ Dân chủ, nói với Digital, “Israel đã rút quân đơn phương 20 năm trước. Ai Cập không muốn dính dáng gì đến Gaza. Hamas là một nhóm khủng bố, không phải là chính phủ. Gaza là vùng đất không người, với 2 triệu người bị sử dụng như quân cờ chính trị thay vì con người.”
Ý tưởng của Trump về việc di dời dân số Gaza và xây dựng lại các cộng đồng mới phản ánh các mô hình từ quá khứ. Cho dù đó là người Phi-li-tin, người Ottoman, người Anh hay người Ai Cập, Gaza thường xuyên chứng kiến dân số của mình bị di dời, chỉ để trở lại hoặc được định hình lại dưới sự cai trị của những người cai trị mới. Trong khi thực tế chính trị ngày nay khiến việc di dời hàng loạt khó xảy ra, lịch sử cho thấy những thay đổi căn bản về nhân khẩu học của Gaza không phải là chưa từng có.
Bài viết được cung cấp bởi nhà cung cấp nội dung bên thứ ba. SeaPRwire (https://www.seaprwire.com/) không đưa ra bảo đảm hoặc tuyên bố liên quan đến điều đó.
Lĩnh vực: Tin nổi bật, Tin tức hàng ngày
SeaPRwire cung cấp phát hành thông cáo báo chí thời gian thực cho các công ty và tổ chức, tiếp cận hơn 6.500 cửa hàng truyền thông, 86.000 biên tập viên và nhà báo, và 3,5 triệu máy tính để bàn chuyên nghiệp tại 90 quốc gia. SeaPRwire hỗ trợ phân phối thông cáo báo chí bằng tiếng Anh, tiếng Hàn, tiếng Nhật, tiếng Ả Rập, tiếng Trung Giản thể, tiếng Trung Truyền thống, tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Indonesia, tiếng Mã Lai, tiếng Đức, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và các ngôn ngữ khác.